EVFTA đã ‘đơm hoa kết trái’ sau 2 năm thực thi

Ngày 27/12, tại Hà Nội, Bộ Công Thương đã tổ chức Hội nghị tổng kết 2 năm thực thi Hiệp định EVFTA: Những thành quả đạt được, những vấn đề còn tồn tại và giải pháp tận dụng hiệu quả.

2 năm thực thi Hiệp định EVFTA
Thứ trưởng Bộ Công Thương Trần Quốc Khánh phát biểu tại Hội nghị, ngày 27/12. (Ảnh: Vân Chi)

Phát biểu tại Hội nghị, Thứ trưởng Bộ Công Thương Trần Quốc Khánh nhấn mạnh, sau hơn 2 năm (1/8/2020 – 12/2022) thực thi Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – Liên minh châu Âu (EVFTA), tăng trưởng xuất nhập khẩu 2 chiều Việt Nam, Liên minh châu Âu (EU) đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Đặc biệt, mặc dù EVFTA được thực thi vào thời điểm đại dịch Covid-19 diễn ra phức tạp không chỉ ở Việt Nam mà còn ở EU và trên toàn thế giới nhưng trao đổi thương mại hai chiều nói chung và xuất khẩu sang EU nói riêng vẫn tăng trưởng ấn tượng.

Trong năm đầu thực thi EVFTA, trao đổi thương mại song phương đạt 54,9 tỷ USD, tăng 12,1% so với giai đoạn cùng kỳ, trong đó xuất khẩu đạt 34,5 tỷ USD, tăng 11,3% và sang năm thứ hai sang năm thứ hai đạt 61,4 tỷ USD, tăng gần 11,9%, trong đó xuất khẩu đạt 45 tỷ USD, tăng 17%. Riêng trong 11 tháng đầu năm 2022, kim ngạch xuất nhập khẩu hai chiều đạt 57 tỷ USD, tăng 14% so với cùng kỳ, trong đó xuất khẩu đạt 43,5 tỷ USD, tăng 21%. Đáng chú ý, nhiều mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam đều ghi nhận mức tăng trưởng rất tích cực như dệt may (tăng 24%), giày dép (tăng 19%), thủy sản (tăng 41%)…

Thứ trưởng Trần Quốc Khánh nhấn mạnh: “Một điểm sáng nữa trong hoạt động xuất khẩu sang EU là tỷ lệ tận dụng ưu đãi từ EVFTA. Năm 2021, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu sử dụng mẫu C/O Euro.1 đạt khoảng 8,1 tỷ USD, chiếm khoảng 20,2% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa sang EU, tăng 244% so với cùng kỳ năm trước. Trong 10 tháng năm 2022, tỷ lệ tận dụng ưu đãi là 25,1%, tăng hơn 30% so với cùng kỳ năm 2021”.

Có được những kết quả tích cực như vậy, theo Thứ trưởng Trần Quốc Khánh, là do doanh nghiệp Việt Nam đã tận dụng tương đối hiệu quả các cơ hội từ EVFTA. Theo khảo sát của Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), có 4/10 doanh nghiệp Việt Nam đã từng hưởng lợi từ EVFTA. Điều này cho thấy những nỗ lực không mệt mỏi của các cơ quan quản lý ở cấp trung ương và địa phương, các hiệp hội và cộng đồng doanh nghiệp trong suốt thời gian qua đã “đơm hoa kết trái”.

Nhằm hỗ trợ doanh nghiệp tận dụng tốt hơn cơ hội từ EVFTA, ông Ngô Chung Khanh, Phó Vụ trưởng Vụ Chính sách thương mại đa biên (Bộ Công Thương) cho rằng, có 7 nhóm mặt hàng bao gồm cả công nghiệp và nông nghiệp là những nhóm hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam sang EU, bao gồm: Máy vi tính; dệt may; máy móc và thiết bị; giày dép; rau quả tươi, rau củ quả chế biến; thuỷ sản (cá tra và các sản phẩm khác); gạo.

Theo đó, với mặt hàng rau quả tươi và rau củ quả chế biến nếu không có EVFTA thì thuế suất sẽ ở mức cao nhất là 20%, nhưng nhờ có EVFTA thì hiện phần lớn thuế đã về mức 0%. Tuy nhiên, tỷ lệ mặt hàng rau quả tươi, rau quả chế biến Việt Nam xuất khẩu vào thị trường EU hiện mới chiếm khoảng 2,7% thị phần tại EU, nên tiềm năng để doanh nghiệp Việt Nam đưa mặt hàng rau quả tươi, rau củ quả chế biến xuất khẩu vào EU là rất lớn.

Tương tự với nhóm mặt hàng thuỷ sản (cá tra và sản phẩm khác), mức thuế suất nếu không có EVFTA thì cũng ở mức 20%, tuy nhiên với cam kết từ EVFTA đã xoá bỏ thuế với 86,5% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam trong 3 năm; xoá 90,3% kim ngạch trong 5 năm và 100% trong 7 năm. Đặc biệt, tỷ lệ xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang thị trường EU mới chiếm khoảng 4,2% thị phần, nên dư địa để Việt Nam xuất khẩu mặt hàng này sang EU là rất lớn.

Ông Nguyễn Văn Hiếu, Giám đốc kinh doanh xuất khẩu, Tập đoàn Lộc Trời, đơn vị đã đẩy mạnh xuất khẩu gạo sang thị trường EU sau khi EVFTA có hiệu lực cho biết, Hiệp định đã giúp gạo Việt Nam có vị thế tốt hơn ở thị trường châu Âu cũng như có sức lan tỏa ở nhiều thị trường khác. Mặc dù sau khi Hiệp định có hiệu lực, doanh nghiệp sẽ thu về nhiều lợi ích, tuy nhiên giá bán gạo Việt vẫn không cao như mong đợi mà vẫn thấp hơn giá trị thật của nó vì nhiều nguyên nhân khách quan lẫn chủ quan.

“Muốn xuất khẩu vào thị trường châu Âu, các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, xuất khẩu gạo cần có sản phẩm đạt chuẩn GlobalGAP hoặc VietGAP thực thụ và nên có chọn lọc sản phẩm, cụ thể là nên chọn những loại có chất lượng cao thay vì gạo chất lượng thấp”, ông Hiếu cho hay.

Chia sẻ kinh nghiệm xuất khẩu sang EU, ông Nguyễn Đình Tùng, Tổng giám đốc Công ty Xuất nhập khẩu Vina T&T cho biết, doanh nghiệp xuất khẩu bưởi, dừa và thanh long vào EU theo Hiệp định EVFTA. Thị trường EU đòi hỏi phải có chứng nhận Global GAP, đòi hỏi nhà máy chế biến, đóng gói trái cây phải áp dụng tiêu chuẩn ISO, phải có chứng nhận Hệ thống quản lý an toàn thực phẩm (HACCP) và chứng nhận Tiêu chuẩn trách nhiệm xã hội (SMETA). Các tiêu chuẩn ấy, Vina T&T đã có sẵn nên việc đàm phán bán hàng với EU diễn ra thuận lợi và được hưởng mức thuế 0%.

Theo ông Tùng, rau củ quả là thực phẩm thiết yếu nên thị trường thế giới luôn rộng mở. Doanh số xuất khẩu rau củ quả của Việt Nam hiện chỉ chiếm 1% trên thế giới. Các FTA sẽ mang lại thuận lợi cho Việt Nam giao thương với các nước, nhưng muốn tận dụng triệt để các FTA thì doanh nghiệp phải chủ động hơn nữa. Việt Nam phải sản xuất ra những mặt hàng cùng một tiêu chuẩn để có thể bán đi EU, Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc… và trong nước đều được. Và quan trọng nữa là nhà nông và doanh nghiệp cần liên kết chặt chẽ để giúp nền nông nghiệp phát triển bền vững, xuất khẩu ngày càng tăng.

Theo đánh giá chung của các chuyên gia, dư địa và cơ hội từ thị trường EU còn rất rộng lớn, các doanh nghiệp Việt Nam vẫn gặp nhiều khó khăn và vướng mắc khi tiếp cận thị trường này, cả về lý do chủ quan và khách quan. Thương hiệu Việt Nam chưa được xây dựng hoặc chưa được biết đến nhiều tại các nước châu Âu, giá trị và lợi ích mà các doanh nghiệp Việt Nam thu về còn chưa tương xứng với tiềm năng.

Nguồn tin: EVFTA đã “đơm hoa kết trái” sau 2 năm thực thi (baoquocte.vn)

Trả lời